Thứ Bảy, 24 tháng 6, 2017

Tiêm vắc xin Cervarix phòng ngừa ung thư cổ tử cung

       Ngày nay đã có rất nhiều loại vắc xin giúp phòng ngừa bệnh tật được ra đời, có thể kể đến như vắc xin ngừa ho gà, bạch hầu, uốn ván, bại liệt, lao, viêm gan B...Thật thiếu sót nếu không kể đến vắc xin Cervarix có vai trò hết sức quan trọng trong việc phòng ngừa ung thư cổ tử cung cho chị em phụ nữ.
       Đây là một loại vắc xin do Bỉ sản xuất, có hiệu giá sinh kháng thể cao hơn so với vắc xin cùng loại Gardasil trong việc phòng ngừa ung thư cổ tử cung ở phụ nữ.
Chỉ định: phụ nữ từ 10 đến 25 tuổi
Dạng bào chế: bơm tiêm đóng sẵn rất tiện lợi, tiêm không đau, cực kỳ an toàn
Cách dùng: tiêm bắp sâu vào vị trí cơ delta ( giống tiêm các vắc xin khác cho trẻ em)
Lịch tiêm: 3 mũi theo thứ tự Tháng thứ 0,1,6
Giá thành: Khoảng 1 triệu/ mũi

Thứ Bảy, 3 tháng 6, 2017

Liệu pháp miễn dịch - Sự lựa chọn sáng suốt nhất

           Trong thời đại kháng sinh càng ngày càng trở nên vô ích trước sự tấn công của vi khuẩn, hóa chất độc hại không ngừng tàn phá cơ thể chúng ta hàng giờ hàng phút, tỉ lệ mắc các bệnh nghiêm trọng như nhiễm khuẩn huyết, ung thư chưa bao giờ là không ngừng tăng. Chúng ta phải làm gì???

LIỆU PHÁP MIỄN DỊCH là lựa chọn hàng đầu.

       Ngày xưa, trẻ con rất khỏe mạnh, chúng nô đùa dưới ánh nắng cả ngày trời mà chẳng thấy ốm đau, chúng lội ruộng, hụp ao bắt con tôm, con tép chân lấm tay bùn là thế mà có thấy nhiễm khuẩn huyết bao giờ đâu, có thấy phải nằm viện tiêm chích kháng sinh gì đâu, có chăng cũng chỉ cần vài viên Ampicillin là ổn rồi.
      Ngày xưa, con người ăn uống có vẻ thiếu thốn, khổ sở một chút, nhưng gì cũng thấy ngon, ăn gì cũng yên tâm, chỉ sợ chẳng có mà ăn 😄
      Ngày xưa, con người ta hơi thiếu thốn vật chất thật đấy nhưng cơ thể khỏe mạnh, lao động lam lũ vất vả tạo ra sức đề kháng với bệnh tật hết sức tuyệt vời, hay là do cơ thể gầy quá thiếu chất nên vi khuẩn nghĩ rằng chẳng có gì béo bở mà chúng tha cho không tấn công con người nhỉ😇

         NGÀY NAY THÌ SAO ???

     Trẻ em chỉ biết ngồi lì trước máy chiếc máy vi tinh, điện thoại thông minh, chẳng chịu vận động, ăn uống thì đầy đủ quá mà, đứa nào đứa nấy béo trục béo tròn, lại cộng thêm sự thiếu hiểu biết của bố mẹ chúng, hơi tí là kháng sinh, mấy ông thầy thuốc thì ngán ngẩm quá chẳng thèm giải thích chi nhiều, cứ đến khám là kê kháng sinh + chống viêm, ngày càng phải tăng liêu lên.
     Người lớn cũng chẳng kém cạnh, 3 ông đi uống cà phê, mỗi ông ôm một chiếc smartphone ngồi một góc, lâu lâu nói với nhau dăm ba câu vì sợ đối phương quên mất sự tồn tại của chính mình, thể thao thì không chơi, nấu ăn thì lười, ai cũng ngại vào bếp, fastfood cứ chén cho nhiệt tình, rồi suốt ngày lại kêu đau họng quá, ốm quá, mệt quá chẳng làm được gì.
     Dù là người lớn hay trẻ em thì cũng chịu chung số phận là đang bị đầu độc bởi những hóa chất độc hại, thực phẩm bẩn, có biết cũng chẳng làm gì được hết.

TẤT CẢ ĐÓ DẪN TỚI KẾT CỤC:

+Chưa mưa đã ốm
+Chưa ăn đã đau bụng, tiêu chảy
+Ung thư, nhiễm trùng thì liên miên.

MIỄN DỊCH LÀ GÌ? 

Đó là hàng rào phòng thủ tốt nhất, an toàn nhất cho cơ thể chúng ta. Đó là những chiến binh chiến đấu không biết mệt mỏi, luôn bảo vệ cơ thể chúng ta cả trong giấc ngủ cũng như khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi nhất, nó vẫn ngoan cường chống lại vi khuẩn, vi rút tấn công xâm nhập.
Khi miễn dịch yếu, chúng ta dễ mắc các bệnh nhiễm trùng gây sốt, viêm họng, và đặc biệt hệ miễn dịch yếu có thể làm mất khả năng kiểm soát chính sự phát triển của các cơ quan trong cơ thể dẫn tới sự phát triển của các mô vô tổ chức mà đơn giản đó chính là ung thư.
Liệu pháp miễn dịch có thể giúp chúng ta khỏe mạnh hơn, tránh bị các bị nhiễm trùng và đặc biệt là phòng ngừa ung thư. Hãy liên hệ để được tư vấn tốt nhất nhé Bs Thắng 0988778115.



Thứ Sáu, 2 tháng 6, 2017

Tiêm phòng uốn ván cho bà bầu

Đối với phụ nữ mang thai mà chưa từng tiêm phòng uốn ván nên TIÊM 2 MŨI
           - Mũi 1 vào tháng thứ 6 của thai kì
           - Mũi 2 sau mũi 1 ít nhất 1 tháng và trước khi sinh ít nhất 1 tháng
Những trường hợp khác: đã tiêm nhưng quá lâu, tiêm không đầy đủ thì cần liên hệ trực tiếp với bác sĩ để được tư vấn cụ thể.
Có những trường hợp tiêm uốn ván sớm vào tháng thứ 4, 5 có thể là do bất thường về thai nghén như rau tiền đạo chẳng hạn, bác sĩ sẽ đề nghị tiêm sớm để nếu có vấn đề gì cần can thiệp về sản khoa thì sẽ an toàn không bị mắc uốn ván.
Mặc dù tiêm uốn ván rất an toàn, không cần thử test trước khi tiêm, tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng không nên tiêm sớm quá, vì khi đó thai nhi đang trong giai đoạn biệt hóa, hình thành các bộ phận cơ thể, ít nhiều tiêm uốn ván cũng ảnh hưởng. Hơn nữa thực tế thì mình đã chứng kiến có trường hợp tiêm uốn ván sớm vào tháng thứ 4 của thai kì sau đó gây sốt tuy nhiên cũng chưa rõ có ảnh hưởng tới em bé hay không.
Vắc xin uốn ván. Ảnh minh họa

Cảnh giác với bệnh cực kỳ nguy hiểm - Não mô cầu thường xuyên bùng phát vào thời điểm từ tháng 6 đến tháng 9 hàng năm.

       Đến hẹn lại lên, cũng vào thời điểm này năm ngoái chúng tôi đã nhận và điều trị rất nhiều ca bệnh não mô cầu nặng nề và phức tạp. Một điều đáng buồn là đa số ca bệnh đã tử vong. Đây là một bệnh truyền nhiễm hết sức nguy hiểm, diễn biến nhanh khủng khiếp và phần lớn bệnh nhân sẽ tử vong nếu không được điều trị kịp thời.
      Bệnh gây ra do song cầu gram âm có tên Neisseria meningitidis, lây qua đường hô hấp do tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân mắc bệnh. Bệnh thường xảy ra vào giai đoạn giao mùa, ở những đối tượng sống chung trong tập thể hay tân binh mới nhập ngũ. Chẳng thế mà vào mỗi mùa tuyển quân các đơn vị đều hết sức lo lắng, tìm mọi cách phòng ngừa cho những cậu lính trẻ khỏi mắc căn bệnh quái ác này. Khi mắc bệnh sẽ gây ra triệu chứng sốt cao đột ngột, đau đầu dữ dội, buồn nôn hoặc nôn vọt chẳng liên quan tới ăn uống gì cả. Bệnh nhân sẽ nhanh chóng đi vào hôn mê, và tử vong nếu không được cấp cứu và dùng kháng sinh kịp thời. Khi nhiễm vi khuẩn não mô cầu có thể gây ra thể viêm màng não đơn thuần, thể nhiễm khuẩn huyết hoặc cũng có thể cả hai dạng này kết hợp với nhau. Sợ nhất là những ca đi vào sốc nhanh chóng, suy đa phủ tạng thì tiên lượng hết sức dè dặt. Một điều đáng chú ý là những ca nhiễm khuẩn huyết do não mô cầu thường có tử ban xuất hiện rải rác trên cơ thể, hoại tử ở trung tâm và về sau có thể để lại vết loét khá lớn, có trường hợp tử ban lớn như trái ổi trâu.

               Trường hợp này tử ban còn ít chỉ tập trung ở 2 chi dưới, kích thước nhỏ như hạt đậu

      Điều trị: chúng ta sẽ dùng Ceftriaxone 4g/ ngày nên dùng biệt dược xịn chút nhé như Rocephin của Thụy sĩ chẳng hạn, kết hợp với kháng sinh nhóm quinolon như Cravit 0,75g( Levofloxacin).
Hiện tại chúng tôi vừa cứu sống một ca nhiễm khuẩn huyết - viêm màng não do não mô cầu hết sức nặng nề được đưa cấp cứu bằng trực thăng từ đảo Thổ Chu - Kiên Giang về.

                                                      Binh nhất Nguyễn Hoàng G. 23T
Nếu các bạn có thắc mắc hoặc muốn chia sẻ thêm kinh nghiệm về những ca bệnh hay như thế này có thể liên hệ với Bs.Thắng  -  ĐT: 0988778115

Thứ Năm, 1 tháng 6, 2017

BÁO CÁO CA BỆNH THIẾU MEN G6PD - TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ BỆNH TRUYỀN NHIỄM TỐT NHẤT TPHCM (SÀI GÒN)


       Có rất nhiều người lạm dụng thuốc giảm đau hạ sốt có chứa paracetamol, bất kể họ đang bị bệnh gì và nguyên nhân ra sao. Tất nhiên đa phần chẳng gây hậu quả nghiêm trọng gì cả, thế nên họ cứ thoải mái mà sài thui. Bỗng nhiên tới một ngày đẹp trời họ bị viêm gan, suy đa phủ tạng mới tá hỏa chạy tới viện, rồi lại than: Biết thế, biết thế tôi đã không lạm dụng thuốc. Có muôn hình vạn trạng tổn thương cơ quan trong cơ thể có thể gây ra bởi thuốc giảm đau hạ sốt paracetamol, tuy nhiên có một tình huống hiếm gặp nhưng rất hay đó là đái huyết cầu tố sau khi sử dụng thuốc paracetamol ở những người thiếu men G6PD. Sau đây tôi xin trình bày một trường hợp đã gặp và đã viết lên tạp chí khoa học.

ĐÁI HUYẾT CẦU TỐ DO THIẾU MEN G6PD. BÁO CÁO CA MỘT CA LÂM SÀNG VÀ TỔNG HỢP Y VĂN.

Nguyễn Chí Thắng
TÓM TẮT
Thiếu men Glucose-6-phosphate dehydrogenase (G6PD) là một bệnh di truyền khá phổ biến ở một số vùng nhất định ở châu Á, châu Phi và Địa Trung Hải. Tình trạng bệnh gây ảnh hưởng đến sức bền hồng cầu, khiến cho những bệnh nhân này dễ bị tan vỡ hồng cầu hay còn gọi là tan máu. Những vấn đề thường gặp ở bệnh nhân thiếu men G6PD là tình trạng thiếu máu và đái huyết cầu tố xảy ra khi tế bào hồng cầu bị phá vỡ nhanh hơn rất nhiều lần so với sinh lý bình thường. Nghiên cứu này mô tả một bệnh nhân nam 22 tuổi thiếu men G6PD và có đái huyết cầu tố.
  *Từ khóa: Thiếu men G6PD, đái huyết cầu tố và thiếu máu tan máu.

HEMOGLOBINURIA IN A PATIENT WITH G6PD DEFICIENCY. A CASE REPORT AND REVIEW OF THE LITERATURE.

ABSTRACT
Glucose-6-phosphate dehydrogenase deficiency is a genetic disorder that occurs most frequently in certain parts of Africa, Asia, and the Mediterranean. This condition mainly affects red blood cells. In affected individuals, a defect in an enzyme called glucose-6-phosphate dehydrogenase causes red blood cells to break down prematurely, which is called hemolysis. The common medical problem associated with glucose-6-phosphate dehydrogenase deficiency is hemolytic anemia and hemoglobinuria, which occur  when red blood cells are destroyed faster than the body can replace them. The present study describes the 22 – year – old man with G6PD deficiency involving hemoglobinuria.
   *Key words: Glucose-6-phosphate dehydrogenase deficiency, hemoglobinuria, and hemolytic anemia.




ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu men Glucose – 6 – photphat dehydrogenase là một bệnh di truyền làm rối loạn về enzym phổ biến nhất trên thế giới, một số dân tộc ở miền Nam Việt Nam tỉ lệ này là 11,3% [3], đó là tình trạng người bệnh không đủ enzyme glucose-6-phosphate để giúp tế bào hồng cầu hoạt động bình thường. Người bệnh dễ bị dị ứng nặng khi ăn đậu tằm hoặc sử dụng một số dược phẩm, hóa chất có tính ôxy hóa. G6PD hay là một enzyme nội bào, cấu trúc gồm 515 acid amin, trọng lượng phân tử 59000 dalton, có vai trò xúc tác cho phản ứng hóa học: D-glucose 6-phosphate + NADP+   6-phospho-D-glucono-1,5-lactone + NADPH + H+. Enzyme này là chất xúc tác cho con đường pentose phosphate, tạo nicotinamide  adenine dinucleotide phosphate hydro (NADPH) từ nicotinamide adenine dinucleotide phosphate (NADP) . NADPH đóng vai trò duy trì nồng độ của glutathione trong các tế bào, giúp bảo vệ các tế bào này khỏi sự phá hủy của các tác nhân oxy hóa. Hồng cầu không tạo được NADPH bằng bất cứ con đường nào khác, cho nên khi thiếu G6PD, chúng rất dễ bị phá hủy bởi các chất có tính oxy hóa [1].
Tế bào hồng cầu có thể bị phá hủy và gây ra tình trạng tan máu cấp nếu bệnh nhân thiếu men G6PD mắc phải một số bệnh nhiễm trùng, căng thẳng quá mức, một số loại thức ăn ( như đậu fava ), và một số loại thuốc có tính oxy hóa bao gồm: thuốc chống sốt rét, Aspirin, Nitrofurantoin, thuốc chống viêm giảm đau non – steroid, nhóm quinin, Sulfamid và một số hóa chất khác chẳng hạn băng phiến cũng có thể gây bùng phát cơn bệnh [4], [5]. Bệnh thường xảy ra ở nam nhiều hơn nữ, theo Denish Bwayo và cộng sự thì tỉ lệ này là 53,5% ở nam so với 46,5% ở nữ [2].
Chẩn đoán thiếu men G6PD được thực hiện bằng phân tích định lượng đo ánh sáng quang phổ, thường hơn là test nhanh huỳnh quang phát hiện sự tạo NADPH từ NADP. Chẩn đoán này dương tính nếu mẫu máu không phát quang dưới ánh sáng tia cực tím. Phương  pháp PCR (polymerase chain reaction) được dùng để phát hiện những đột biến cụ thể và được sử dụng cho tầm soát cộng đồng, nghiên cứu gia đình, hay chẩn đoán tiền sản.
Trong nghiên cứu này chúng tôi mô tả một bệnh nhân nam 22 tuổi bị bệnh thiếu men G6PD, có tình trạng đái huyết cầu tố, đồng thời tổng hợp y văn về sinh lý bệnh học của tan vỡ hồng cầu do thiếu men G6PD, cũng như bàn luận về chẩn đoán và phương pháp điều trị.



GIỚI THIỆU CA BỆNH
Bệnh nhân nam 22 tuổi, chưa từng có tiền sử đái huyết cầu tố, sốt rét. Cách vào viện 04 ngày, bệnh nhân xuất hiện sốt đột ngột, sốt nóng kèm gai rét, không rét run, đau mỏi người và vùng thắt lưng, uống thuốc theo quân y đơn vị gồm paracetamol, vitamin 3B, sau đó vài tiếng bệnh nhân xuất hiện đi tiểu vàng đậm, rồi dần chuyển sang đi tiểu màu đen như nước cà phê, đồng thời da niêm mạc vàng đậm. Chuyển đến A4 – BV175 trong tình trạng còn sốt khoảng 380C, nước tiểu còn đen đậm.  XN lúc vào: số lượng bạch cầu: 13000/mm3, số lượng hồng cầu: 2,44 triệu/mm3, Hemoglobin: 8,5g/dl; số lượng tiểu cầu: 164000/mm3; men gan AST/ALT: 140,5/89,9U/l;  Bilirubin toàn phần/trực tiếp: 207,75 /21,36umol/l. Xét nghiệm kí sinh trùng sốt rét (KSTSR) (-), nước tiểu hồng cầu +++, men G6PD: 1.2U/gHb. Chúng tôi đã chẩn đoán là Đái huyết cầu tố ở bệnh nhân thiếu men G6PD do thuốc paracetamol. Sau đó bệnh nhân được dùng thuốc giải độc tế bào gan, cắt hoàn toàn việc sử dụng paracetamol. Tình trạng bệnh nhân tốt dần lên, hết sốt, men gan về bình thường, sau 5 ngày Billirubin TP/TT: 15,98/1,61; hết vàng da niêm mạc, hồng cầu về bình thường.

BÀN LUẬN
Về chẩn đoán, bệnh nhân nhập viện trong tình trạng sốt, nước tiểu đen đậm, thiếu máu, chúng ta có thể nghĩ tới nguyên nhân do sốt rét đái huyết cầu tố, tuy nhiên bệnh nhân không có rét run, nhiệt độ chỉ khoảng 380C, xét nghiệm KSTSR (-), yếu tố dịch tễ cũng không phù hợp nên loại bỏ nguyên nhân này.
Một số nguyên nhân khác có thể gây đái huyết cầu tố như cường lách, đái huyết cầu tố kịch phát ban đêm thì cũng không hợp lý vì qua thăm khám, siêu âm và làm các xét nghiệm tình trạng gan lách của bệnh nhân hoàn toàn bình thường, các kết quả cận lâm sàng cũng không phù hợp.
Sau khi loại trừ các nguyên nhân trên, chúng tôi nghĩ tới tình trạng đái huyết cầu tố là do hậu quả của việc dùng thuốc trên cơ địa bệnh nhân mắc một bệnh di truyền nào đó. Việc nghĩ tới nguyên nhân đái huyết cầu tố do thiếu men G6PD là khá phù hợp theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Huệ và cộng sự thì tỉ lệ này lên tới 58,5 % [3], đồng thời xét nghiệm men G6PD = 1.2U/gHb đã khẳng định chẩn đoán đái huyết cầu tố do thiếu men G6PD là chính xác. Chúng tôi cho rằng nguyên nhân đái huyết cầu tố ở bệnh nhân này có thể là do sau dùng Paracetamol bởi lẽ đây là một thuốc có tính oxi hóa khá mạnh, ở những người thiếu men G6PD rất dễ xảy ra tình trạng đái huyết cầu tố khi sử dụng những thuốc thuộc nhóm này [5]. Hơn nữa, kể từ khi ngừng thuốc paracetamol, tình trạng bệnh đã được cải thiện rõ rệt. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của T K Chan và cộng sự khi họ đã đưa ra được một danh sách các tác nhân gây ra tình trạng đái huyết cầu tố ở bệnh nhân thiếu G6PD dựa trên theo dõi lâm sàng [4].
Về điều trị không có gì đặc biệt, vì chúng ta đã biết đây là một bệnh liên quan đến di truyền, điều quan trọng là phải phát hiện ra nguyên nhân, tìm cách phòng tránh cho bệnh nhân trước khi xảy ra, và chấm dứt càng sớm càng tốt nếu bệnh đang tiến triển. Bệnh nhân sau đó hồi phục hoàn toàn và được xuất viện [5].

KẾT LUẬN
Thiếu men G6PD là bệnh tương đối nguy hiểm nếu không được phát hiện kịp thời, nhưng ở Việt Nam sự phát hiện và chẩn đoán bệnh còn chưa được coi trọng, do đó chúng ta cần có thái độ nghiêm túc không được chủ quan đối với những trường hợp nghi ngờ mắc bệnh này. Việc phát hiện bệnh và tư vấn cho bệnh nhân về tình trạng bệnh cũng như cách phòng tránh là hết sức cần thiết để không có những lần tái phát sau này cũng như hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra vì thiếu hiểu biết về bệnh. Trong y khoa, việc sử dụng thuốc nói riêng cũng như quá trình điều trị bệnh nói chung phải xem xét hết sức toàn diện, đặc biệt là phải lưu tâm đến tác dụng phụ của một số thuốc có thể xảy ra đối với một số nhóm bệnh nhân nhất định.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. WHO Working Group. Glucose-6-phosphate dehydrogenase deficiency. Bull World Health Organ.1989;67:601–611. [PubMed]
2. Denis Bwayo, Mark Kaddumukasa, Henry Ddungu, Fred Kironde. Prevalence of glucose-6-phosphate dehydrogenase deficiency and its association with  Plasmodium falciparum infection among children in Iganga distric in Uganda. BMC Res Notes. 2014; 7: 372. Published online 2014 June 18. doi: 10.1186/1756-0500-7-372. [PubMed]
3. Nguyen Thi HueJean Paul CharlieuTran Thi Hong ChauNick DayJeremy J FarrarTran Tinh Hien, and Sarah J Dunstan. Glucose-6-phosphate dehydrogenase (G6PD) mutations and haemoglobinuria syndrome in the Vietnamese population. Malar J. 2009; 8: 152, doi:  10.1186/1475-2875-8-152.
4. T K Chan, D Todd, S C Tso. Drug-induced haemolysis in glucose-6-phosphate dehydrogenase deficiency. Br Med J. 1976 November 20; 2(6046): 1227–1229.
5. Cpt Ali R Elyassi, Maj Henry H Rowshan. Perioperative Management of the Glucose-6-Phosphate Dehydrogenase Deficient Patient: A Review of Literature. Anesth Prog. 2009 Fall; 56(3): 86–91. doi: 10.2344/0003-3006-56.3.86.

LIÊN HỆ THỰC TẾ BS.THẮNG 0988778115




QUAN TÂM NHIỀU NHẤT TRONG TUẦN QUA